.
.
.
Vũ Hoàng
Chương
Tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc
_______________________________
TẠ
TỴ
.
Vũ Hoàng Chương: Làm
thơ. Sinh ngày: 5-5-1916
tại Nam
Định (Bắc Việt, theo giấy khai sinh). Năm sinh đúng: 1915, năm Ất Mão, tháng 4,
mồng Một. Chánh quán: Làng Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên (Bắc Việt).
Tác phẩm: Thơ say
1940, Vân Muội (kịch thơ) 1942, Mây (thơ) 1943, Vân Muội, Trương Chi, Hồng Điệp
(kịch thơ) 1944, Thơ lửa (cùng với Đoàn Văn Cừ - Liên khúc 3),Tâm sự kẻ sang
Tần (kịch thơ) 1951, Rừng phong (thơ) 1954, Hoa đăng (thơ) 1959, Tâm tình người
đẹp (thơ Nhị thập bát tú) 1961, Trời một phương (thơ), Thi tuyển (Poèmes
choisis) tựa của Simone Kuhnen de la Coeuillerie 1963, Lửa từ bi (thơ) 1963,
Ánh trăng đạo (thơ) 1966, Bút nở hoa đàm (thơ) 1967, Cành mai trắng mộng (thơ)
1968, Nouveaux Poèmes (Tân Thi) 1970, Ta đợi em từ ba mươi năm (thơ) 1970, Loạn
trung bút (tạp văn) 1970
“Ôi, Lý Bạch,
Trang Chu đường chim nẻo Nguyệt
Đời hoạ còn ta là theo vết người xưa…”
Đời hoạ còn ta là theo vết người xưa…”
(Vũ Hoàng Chương
Nói đến Vũ Hoàng
Chương là nói đến dòng thời gian xa thẳm trước tầm mắt, là nhắc nhở đến vùng
bao la như lớp khí quyển vây quanh trái đất tạo nên ứ đọng với từng ngón hoài
nghi, với niềm dằn vặt khôn nguôi giữa sự bứt rời và níu kéo trong một thể xác
nửa mệt lả vì yêu thương, nửa giận hờn nỗi thất bại của tâm linh trước sự chia
lìa của Thơ với Thực tại
Sinh ra đời dưới một
ngôi sao tốt, từ nhỏ, Vũ được bọc đùm trong nhung lụa, được dạy dỗ ở cả hai
phía, Tây học và Hán học. Vũ đã hấp thụ văn học Tây phương đồng thời do sự giáo
huấn của bà mẹ, Vũ cũng say mê Đông phương và sớm suy tư triết thuyết Lão, Trang
với cổ thư Trung Quốc.
Sự ám ảnh của thời
đại hoàng kim chìm khuất với vóc dáng chàng Tư Mã áo xanh trên bờ sông Dương
Tử, hay khuôn mặt nàng ca kỹ bén Tầm Dương “tay ôm đàn che nửa mặt hoa”… đã làm
phai mờ tất cả kích thước các nhà thơ lớn Tây phương: Hugo, Lamartine, Musset,
Baudelaire, Verlaine, Rimbaud đang chiếu sáng trên vòtrời thi ca Việt Nam
khoảng 1935-43 với từng người thơ chịu ảnh hưởng sâu đậm kỹ thuật, nhất là tư
tưởng vay mượn của nền thi ca miền tóc vàng, tuyết trắng
Vũ là tượng hình đứng
cô liêu trong vòm trời quá khứ. Ánh sáng của ngọn hải đăng le lói giữa đêm
khuya mịt mùng sóng vỗ, Vũ lắng nghe hồn mình trải rộng trên mỗi con nước đại
dương và thầm ước sẽ tìm được trong sự luân lưu đó, chút hơi thở của người xưa
vọng đến. Nhưng ánh sáng của ngọn hải đăng vẫn le lói hằng đêm và đại dương cứ
luân lưu theo chu kỳ miên viễn, hơi thở của quá khứ trôi đi biền biệt không để
lại vết tích gì trong vũ trụ bao la, có chăng chỉ còn lại niềm tưởng vọng giữa
sự-sống-hôm-nay gửi về cõi-chết-hôm-qua bằng môi trường suy cảm. Vũ đã suy cảm
và lựa chọn khổ đau, với đam mê huỷ diệt. Vũ khước từ cái công danh phú quý mà
đời đã trao tặng sau những năm đèn sách, để tự dấn thân vào thế giới thi ca,
tức là mang lấy nghiệp. Sự “đầu thai lầm thế kỷ” mà Vũ đã viết ra, hét to lên
trong cơn mê loạn của thể xác, trong nỗi vò xé của tâm linh trước cuộc sống
nghẽn lối, trước cơn bi phẫn của con chim bị trúng tên rã cánh, nhìn trời cao
mà không vút lên được, nhìn trái ngọt mà không vừa an hưởng, nhìn thân phận
trôi đi, trôi đi như ảo ảnh để nuối tiếc giấc mơ thành bướm thuở nào.
Thế đó, dòng sông với
ngần ấy tê liệt, ngần ấy giận hờn trong một xã hội đốn mạt, trong một quốc gia
nô vong, Vũ cảm thấy mình đã nhiễm độc và để giải độc, Vũ tìm quên trong chiều
sâu của ảo giá, của men khói. Ở đó, Vũ đón nhận về phần mình tất cả đau thương,
qua từng sợi khói lung linh, qua lời hò hẹn chênh vênh, qua tình yêu gục mặt,
qua niềm tin đổ vỡ để thoát vào cảm thông với hơi thở mỏi mòn. Vũ tiếp thu
những giá trị bi thương ấy, những nghẹn ngào câm tiếng ấy bằng niềm sảng khoái
vỡ bờ. Vũ từ bỏ thực tại như từ bỏ chính bản thân. Vũ lững thững đi vào xứ
Mộng. Trong cõi mông lung của tiềm thức, từng hình ảnh xa lìa, khắc khoải bám
riết lấy suy tư, xiết chặt thân phận Vũ vào chiếc nôi bằng tơ có móc đầy gai
nhọn. Sự lìa bỏ bản thân, lìa bỏ thực tại phải được coi như những chứng tích,
mỗi ngày mỗi nối hằn như vết roi định m
Hành trình vào thế
giới thi ca của Vũ, người ta không thể không xuyên qua bản chất thực thể của Vũ
với tấm lòng rộng mở, với ý hướng chói loà chiếu rọi vào mỗi dòng, mỗi chữ để
cùng đau, niềm đau tâm sự! Vũ, mẫu người thơ đặc biệt, không giống với bất cứ
thi nhân nào đã và đang có mặt. Vũ làm thơ để cất lên lời chào, tiếng khóc. Vũ
làm thơ để trối trăng ý tình, để tiếp nối hơi thở gửi từ kiếp trước. Cái đau,
Vũ khóc ngất trong thơ không phải cái đau của Huy Cận với “Chàng là con một
người mẹ hay sầu. Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ”. Không, không, cái đau
của Vũ cao rộng và siêu thoát. Nó có đấy, nhưng nó cũng vô vàn xa vời như chiếc
bóng hồ ly, như tiếng nhạc lênh đênh dội từ cung Hằng thăm thẳm. Phong độ trong
thơ Vũ là phong độ của cánh chim hồng hộc bay suốt vạn dặm dài, qua bao nhiêu
không gian ước định. Thơ Vũ hiện diện như loài hoa quý, ngạo nghễ rung rung
từng cánh mỏng cho phấn hương tan vào thinh không gửi đến mọi phương trời, mọi
góc cạnh tâm tư đang chới với trong mê muội, trong dục vọng thấp hèn giữa cuộc
sống buông trôi.
Hành trình vào thơ
Vũ, mỗi con người tự cảm thấy lâng lâng như lạc vào giấc mơ kỳ thú. Thời gian,
không gian xáo trộn, quỷ với người là tình nhân, gỗ đá cũng mặc áo linh hồn.
Nhưng muốn hiểu thơ Vũ đến cùng, người ta phải tìm hiểu cả cái dòng sống phức
tạp xuyên qua từng khía cạnh ngọt ngào và cay đắng, đã làm Vũ chết điếng sầu
đau, tê rời cảm xúc.
Tình yêu và
đam mê
Đi vào tình yêu là đi
vào nguồn vui đau khổ. Từ khung trời hy vọng đổ sang vùng địa ngục tối tăm. Từ
ánh mắt sáng ngời do lửa yêu đương thắp sáng đến nấm mộ u uất dựng lên giữa cõi
sống như một sỉ nhục. Khuôn mặt người đàn bà mang tên Kiều Thu mà Vũ đã ôm ấp
mười năm, mười năm nhen nhúm với ước vọng, với chờ đợi não nề, với dặm dài mệt
mỏi. Kiều Thu, Kiều Thu hỡi! Người đàn bà may mắn đã được Vũ khóc trong thơ, đã
được Vũ vuốt ve với vần điệu gấm nhung, đã được Vũ tôn lên ngai thờ Nữ Sắc, nàng
có biết chăng, dung nhan đó đã trở thành bất tử. Người đàn bà ấy giờ đây đang
có mặt ở phương nào, đang ẩn mình trong góc cạnh nào của cuộc sống, sung sướng
hay khổ đau, đã già hay còn trẻ, hãy ngẩng mặt lên đón nhận nơi đây lời chúc
tụng.
Tình yêu mà Vũ đã gửi
tặng lầm nơi không phải thứ tình yêu qua nhanh như gió thổi, như lằn chớp ngang
trời. Nó day dứt sượng sùng. Nó tái tê cuồng dại đến nỗi Vũ phải kêu la:
“Yêu sai lỡ để
mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại mấy tờ thư!”
Tình mười năm còn lại mấy tờ thư!”
Biết rằng thất bại và
biết được giá trị khổ đau, Vũ muốn tìm quên bằng cách đắm chìm thân phận vào
trời say, nhưng không được:
“Say đã gắng để
khuây sầu lẻ gối
Mưa, mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau
Gấm thế nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay màu đôi mắt biếc?
Tình đã rời đi riêng mình tưởng tiếc
Thôi rồi đây chiều xuống giấc mơ xưa
Lá, lá rơi nằm bệnh mấy tuần mưa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ…”.
Mưa, mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau
Gấm thế nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay màu đôi mắt biếc?
Tình đã rời đi riêng mình tưởng tiếc
Thôi rồi đây chiều xuống giấc mơ xưa
Lá, lá rơi nằm bệnh mấy tuần mưa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ…”.
(Lá thư ngày
trước, Mây)
Như thế đó, tình yêu
đối với Vũ là hình phạt nặng nề hơn ân thưởng. Những khuôn mặt đàn bà đi qua
đời Vũ, được Vũ nhắc đến trong tác phẩm, đều chập chờn như những bóng ma. Cô
gái tóc vàng đến từ miền tuyết trắng hay ả ca kỹ nổi danh phòng Dạ-lạc cũng chỉ
là hư ảnh. Vết thương tình ái làm Vũ nhức nhối đến bây giờ, trong buổi xế chiều
của cuộc đời, vẫn là Kiều Thu. Nó là ung thư đục khoét ở chiều sâu cơ thể. Nó
làm cho con người chết mỏi mòn vì ám ảnh, sầu đau. Vũ mang vết thương đó đi
lang thang trên mọi nẻo đường đời như mang một số kiếp phụ thuộc.
“Trăng của nhà ai
Trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ở đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương…”
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ở đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương…”
Ngày 12 tháng 6 là
ngày người yêu sang ngang. Sự dứt bỏ này làm tổn thương đến danh dự người trai
ngoài hai mươi tuổi. Nhưng nàng bỏ ta không phải là hết. Ta vẫn mê nàng. Ta là
gã si tình ngàn kiếp:
“Tháng sáu mười
hai từ đây nhé
Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa Tố của tôi…”
Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa Tố của tôi…”
Rồi Vũ thét ngất
“Kiều Thu hề Tố
em ơi
Ta đương lửa đốt tơi bời mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hò Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên…
(Mười hai tháng sáu, Mây)
Ta đương lửa đốt tơi bời mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hò Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên…
(Mười hai tháng sáu, Mây)
Niềm bi thảm của tình
yêu cứ kéo lê trong tâm linh Vũ như vết hằn khổ nhục. Khuôn mặt và vóc dáng người
đàn bà đó đã gây nên ấn tượng khốc liệt làm Vũ choáng váng đến run sợ. Chính vì
không đủ can đảm, Vũ chạy trốn thất vọng đi tìm đam mê để giết nỗi buồn dằng
dặc. Vũ dìm đời mình vào dòng sông Mê khoái cảm. Vần điệu trong thơ Vũ ngất ngư
như ủ say men khói, lãng đãng lạc vào cõi u huyền mộng mị.
Thi phẩm Mây chào đời
năm 1943 là thi phẩm sáng chói nhất của Vũ, vì ở giai đoạn này, Vũ đã sống trọn
vẹn với hơi thở thi ca, với quê Nâu lửa đóm bằng máu và hồn. Vũ thiêu dần thân
xác chẳng những với ngọn dạ đăng chập chờn hoa bấc mà còn đắm say tiếng cầm ca,
sênh phách rộn ràng trong từng đêm dài cửa Ô đau khổ. Vũ muốn xé tan thân phận
mình và tiêu huỷ cái số kiếp bi đát để tìm về giải thoát, sự giải thoát nào đó
có mầu nhiệm hay không, Vũ chẳng cần biết. Vũ nhìn chòng chọc vào cõi Hư Vô
mong soi tỏ bản chất mình qua đốm lửa lung linh mờ ảo.
Ngày rồi đêm, khúc
vui, cung buồn cứ đuổi theo nhau chạy luồn trong huyết quản Vũ để biến Vũ thành
một tù nhân của đam mê vọng tưởng. Niềm thương nhớ chắc chẳng bao giờ nguôi,
từng nỗi khắc khoải, phân vân hiện hình trong thơ Vũ như chứng minh sự buông
thả lênh đênh của một tâm hồn đã quá no đầy oan nghiệt:
“Phơi phới linh
hồn lỏng khóa then
Say nghe giọt nhựa khóc bên đèn
Mê ly cả một trời Đông Á
Sực tỉnh trong lòng nấm mộ đen…”.
Say nghe giọt nhựa khóc bên đèn
Mê ly cả một trời Đông Á
Sực tỉnh trong lòng nấm mộ đen…”.
(Hơi tàn Đông Á,
Mây)
Ảnh hưởng và
đối thoại
Tâm hồn Vũ là những
sợi dây tơ được căng thẳng trên vòm trời ảo mộng. Một hơi gió, một chớp mắt,
một va chạm cỏn con cũng đủ làm cho đường dây rung lên nức nở. Vũ treo cuộc
sống của mình trên những sợi dây mong manh đó và để mặc cho âm hưởng reo vang
tự đáy lòng cô độc. Vũ không nhìn vào cuộc đời có đây để tìm vị trí thực thể
của mình. Vũ xoay mặt đối diện với quá khứ, đối diện với những ước mơ tự ngàn
xưa xa vút. Sự đối diện này tạo cho Vũ niềm tin tưởng vì Vũ cho rằng đã tìm
thấy ở vóc dáng dĩ vãng, cái-qua-rồi, hình ảnh bản thân hiện rõ trong lăng kính
tâm tư. Vũ vẽ lại tiền thân bằng vần điệu. Cả một vòm trời nặng trĩu mây mù, Vũ
dùng tâm linh chiếu sáng để nối lại đường dây giao cảm, để khoả lấp sai biệt
của khoảng cách vô cùng rộng lớn. Vũ mơ giấc mơ thành bướm của Trang Chu và dõi
theo từng bước chân khoảng khoát của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Bạch Cư Dị. Vũ
say mê bờ liễu Hàng Châu lả lướt, hoặc sóng nước xanh rờn vỗ bên Tầm Dương,
hoặc nét nguy nga, cao trọng của lầu Hoàng Hạc ngàn năm sững bóng. Vũ chịu ảnh
hưởng sâu đậm của nền thi ca Trung Quốc thuở thịnh Đường và mê triết thuyết Vô
Vi của Lão Tử. Cái “Có” cái “Không” phải chăng là mầu nhiệm? Đêm đêm Vũ thường
đốt đèn lên trang sách hỏi người xưa về Ý Thức Huyền Vi để mong tìm ra lối
thoát cho bản ngã, tài năng:
“Phải chăng muôn
kiếp nặng nề
Từ Hư Không lại trở về Không Hư
Lẽ nào mộng cả thôi ư?
Người ơi! Giọt bể chứa dư tang điền…”
Từ Hư Không lại trở về Không Hư
Lẽ nào mộng cả thôi ư?
Người ơi! Giọt bể chứa dư tang điền…”
(Bài ca siêu
thoát, Rừng phong
Không tin vào giá trị
của cuộc sống, Vũ nghiêng về hoài cảm. Từ hoài cảm tiến tới hờn giận sự hiện
diện của thực tại nhức nhối, nhơ bẩn. Vũ vượt lên, thoát mình vào ảo giác, trộn
lẫn cái “Còn”, cái “Mất”, cái “Có”, cái “Không” để đi vào quan niệm bi thương,
giận dỗi. Vũ vẫy vùng trong mớ hư ảnh, kêu gọi từng hình thể xa vời trở về đối
thoại.
Vũ cho rằng, cuộc đời
hiện hữu không phải là chỗ đứng của mình nên thay vì đối thoại với người sống,
Vũ trò chuyện với những vóc dáng mơ hồ chạy lởn vởn trong tiềm thức, hay ẩn
hiện sau mỗi cơn say dài men khói. Từng chấm sáng lân tinh xoay quanh đốm lửa
hắt hiu toả hương mê hoặc. Vũ gọi về tâm sự! Vũ dìu nhẹ thời gian trở ngược
vòng vận chuyển. Vũ mơ về thời đại hoàng kim xênh xang nhạc ngựa, gỗ, đá giao
duyên. Vũ đối thoại với linh hồn, ma quỷ bằng lời thơ tiếc nuối:
“Khí thiêng chừng
sớm lìa nhân thế
Dương thịnh rồi chăng Âm đã suy
Quạnh quẽ thu phân thơ bặt tiếng
Lầu hoang chìm dấu cỏ hồ ly
Còn đâu thuở ấy niềm khăng khít
Quỷ với người chung một mái nhà
Trăng bạn, hoa em trầm mối lái
Đèn khuya dìu dặt bóng yêu ma…”
Dương thịnh rồi chăng Âm đã suy
Quạnh quẽ thu phân thơ bặt tiếng
Lầu hoang chìm dấu cỏ hồ ly
Còn đâu thuở ấy niềm khăng khít
Quỷ với người chung một mái nhà
Trăng bạn, hoa em trầm mối lái
Đèn khuya dìu dặt bóng yêu ma…”
(Cảm thông, Mây)
Ma quỷ, Hồ ly đối với
Vũ như những người bạn chí thiết. Vũ trao đổi tâm sự với chúng như trò chuyện
với các danh nhân, cao sĩ. Vũ mặc áo linh hồn cho gỗ, đá, cỏ, cây.
“Ai đó – Phải
chăng hồn cỏ cây
Bấc thơm dầu quánh nhựa hây hây
Dầu vơi bấc mỏng manh gây
Bước chân vào bợ ngợ
Hoa đèn lung lay…”
Bấc thơm dầu quánh nhựa hây hây
Dầu vơi bấc mỏng manh gây
Bước chân vào bợ ngợ
Hoa đèn lung lay…”
(Nửa truyện Hồ ly,
Mây)
Nhưng niềm cảm khái
của Vũ không nhất thiết phải đứng nguyên ở vị trí tiếc thương quá khứ với giấc
mộng đẹp qua đi không bao giờ trở lại, đôi khi, nó vùng lên hào khí. Sự vùng
lên để chứng tỏ một thái độ và cũng để tìm không khí mới cho cuộc đối thoại, vì
đối thoại không hẳn là phải chung thuỷ với một lập luận, chính thực để hiểu
thêm những điểm khác biệt với chính mình. Từ truyện người tráng sĩ Kinh Kha với
đường gươm lỡ dở không thành việc lớn, với tiếng sáo u buồn của Cao Tiệm Ly
tiếc thương người bạn đời, đến vị anh hùng ái vải đất Quy Nhơn đã làm đẹp lòng
Vũ bằng vần điệu gieo vàng, chuốt ngọc.
“Hãy dừng lại
thời gian
Trả lời ta! Có phải,
Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
Lớp hưng phế xô nghiêng triều đại…
Trả lời ta! Có phải,
Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
Lớp hưng phế xô nghiêng triều đại…
Mà chí lớn dọc
ngang
Mà nghiệp lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn…”
Mà nghiệp lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn…”
(Bài ca Bình Bắc, Hoa
Đăng)
Đó, tâm hồn Vũ rng
lên từng cung bậc uyển chuyển, nhịp nhàng. Tình yêu, hồi tưởng, đam mê, đau
khổ, hờn giận đã bủa vây dòng sông nội tâm Vũ, biến Vũ thành một biểu tượng đặc
biệt trong thế giới thi ca hiện đại
Niềm cô đơn
và dung nhan
Mỗi con người là một
hoang đảo, nếu không có sự liên hệ do cuộc sống tạo nên để ràng buộc nhau trở
thành xã hội, quốc gia hay nhân loại. Từ thuở sơ sinh, thanh âm thứ nhất chào
đời là tiếng khóc chứ không phải nụ cười. Cái vòng sinh, lão, bệnh, tử như mỗi
dây oan nghiệt thắt chặt mỗi cá nhân vào nghiệp chướng không để ai thoát khỏi.
Vũ vào đời với từng bước nhỏ nhẹ, với thân phận tiền oan. Màu áo xanh Tư Mã, Vũ
khoác lên vai mỏng manh như một biểu hiệu cố định, đồng thời Vũ cũng mang luôn
niềm cô đơn giữa đời sống – một đời sống nô vong – đang đuổi theo sự an hưởng
vật chất trước mặt, hay gục đầu trong vũng lầy hoàn cảnh. Vũ ngẩn ngơ giữa cõi
đời với túi hành trang chất đầy hoài vọng lẫn bi thương. Vũ hoài vọng đến một
khung trời bỏ ngỏ có bướm vàng, lá thắm tình tự suốt bốn mùa giao hưởng, ở đây,
con người được tự do trút bỏ mọi câu thúc hình hài, nhởn nhơ giữa muốn tiếng
đàn ca, với thiên tiên vui múa Nghê Thường. Vũ có thể tâm sự trực tiếp với “gỗ
danh sĩ”, “đá thuyền quyên” như thuở nào trái đất mới hình thành mầm sống.
Nhưng Vũ đã sinh ra giữa thời đại cơ khí, giữa hoàn cảnh phức tạp của xã hội
Việt Nam nô lệ, nên hoài vọng và niềm bi thương ấy bị dồn nén vào trong để kết
tụ thành khối đau buồn dằng dặc. Vũ nhìn lên vòm cao rồi cúi mặt xuống đất. Vũ
không tìm thấy lối thoát ngoài thi ca. Vũ cô đơn. Mọi cánh cửa đều khép chặt
trước mặt. Ba chiều không gian đã đóng kín, Vũ đành đốt tâm tư để mở một chiều
riêng cho mình. Ấy đó, niềm cô đơn mà Vũ đã mang trọn kiếp người bật khóc trong
thơ:
“Ai biết gì đâu
một cuộc đời
Nhớ thương hờn hận chẳng hề nguôi
Chẳng thương xuân sớm phai màu tóc
Chẳng nhớ mình đang sống kiếp người
Nhớ thương hờn hận chẳng hề nguôi
Chẳng thương xuân sớm phai màu tóc
Chẳng nhớ mình đang sống kiếp người
Chẳng đắp non cao
hờn chót vót
Chẳng thương mà biến hận đầy vơi
Hỏi chi sự nghiệp cùng thân thế
Sông núi – kìa xem – đã lở bồi…”
Chẳng thương mà biến hận đầy vơi
Hỏi chi sự nghiệp cùng thân thế
Sông núi – kìa xem – đã lở bồi…”
(Giấc mơ tái tạo,
Trời một phương)
Từ hờn, hận Vũ đi vào
bi phẫn:
“Ai đó mách giùm
ta với
Quần gót thế nhân như đàn quạ kia chăng
Hay như mây cao đơn chiếc cánh chim bằng
Ấp úng cân đai hề trôi giam tài năng
Vỡ mộng buông câu hề kho trời gió trăng…”
Quần gót thế nhân như đàn quạ kia chăng
Hay như mây cao đơn chiếc cánh chim bằng
Ấp úng cân đai hề trôi giam tài năng
Vỡ mộng buông câu hề kho trời gió trăng…”
(Tuý hậu cuồng ngâm,
Mây)
Chính vì cô đơn quá
đỗi nên Vũ bi quan, muốn rẫy bỏ nguồn sống đi tìm dung nhan cõi chết. Vũ phác
hoạ cõi chết như một đổ vỡ toàn diện. Con người, sự vật mất hẳn. Ý thức về cõi
chết là ý thức thực tế: mỗi người đều muốn có được cái chết yên lành cho riêng
mình. Vũ không nghĩ thế. Vũ hình dung cõi chết như huỷ diệt, một tai nạn hãi
hùng khủng khiếp với phi thuyền gãy lái, với trận lụt Hồng Thuỷ do cơn mưa đổ
tự trời cao không bao giờ tạnh, hoặc cái chết do chính tim óc mình đòi ly khai
với thể xác. Cõi chết mà Vũ tin rằng không ai được cứu rỗi dù Ma Vương hay Phật
Như Lai, dù quỷ Sa-tăng hay Chúa Trời! Các vị thần linh đều bất lực vì cái chết
này do chính con người tạo ra, con người phải chấp nhận hậu quả. Nói đến cái
chết là nói đến niềm hoài nghi cuộc sống. Vũ nói về nó cũng tha thiết, cũng
chìm đắm như nói chuyện yêu thương. Một đôi khi sự giả tưởng đưa suy nghĩ đi
quá trớn, phóng đại ý nghĩa thực tế, mặc dầu trong thực tế có đôi lúc ngẫu hợp,
nhưng nó không mang giá trị tuyệt đối. Nó cần thời gian và chứng nghiệm.
Vậy cõi chết Vũ hình
dung thấy, phác hoạ ra, chỉ là ảo tưởng, nếu vạn nhất có thật, chắc chắn không
phải là cõi chết con người thèm khát hay tình nguyện. Có chăng, nó chỉ liên hệ
đến một mình Vũ với ưu tư thầm kín:
“Cả trái tim tôi
Cũng đòi biệt thế
Nó quyết đi tìm Thượng Đế
Trên con đường không giới hạn bằng tiếng khóc trong nôi
Và điếu văn trước mồ
Nó hy vọng sẽ đích thân làm nhạc trưởng
Đánh nhịp tưng bừng cho nước lửa hoà âm trắng đen hợp xướng
Cho bản đồng ca ảo tưởng
Hiện hữu vang lừng sân khấu Hư Vô…”
Cũng đòi biệt thế
Nó quyết đi tìm Thượng Đế
Trên con đường không giới hạn bằng tiếng khóc trong nôi
Và điếu văn trước mồ
Nó hy vọng sẽ đích thân làm nhạc trưởng
Đánh nhịp tưng bừng cho nước lửa hoà âm trắng đen hợp xướng
Cho bản đồng ca ảo tưởng
Hiện hữu vang lừng sân khấu Hư Vô…”
(Thản nhiên, Trời một
phương)
Và cơn mưa không bao
giờ tạnh:
“Còn mưa rồi sẽ đến
vô cùng
Khối nước đè lên bẹp Thuỷ cung
Ngũ đại dương thành tên gọi hão
Năm châu vùi xuống đáy mồ chung”.
Khối nước đè lên bẹp Thuỷ cung
Ngũ đại dương thành tên gọi hão
Năm châu vùi xuống đáy mồ chung”.
(Kiềm toả, Trời một
phương
Sự bừng tỉnh
và ý thức khổ đau
Sau mấy chục năm đằng
đẵng, Vũ ngụp lặn trong hoài vọng và ước mơ thảng thốt mong tìm siêu thoát.
Hình ảnh quá khứ trôi lều bều với dư âm buồn thương lãng đãng ở cuối trời mộng
tưởng. Vũ khóc đã khô cong nguồn lệ. Vũ ôm bên lòng một mối hận cùng tháng năm
cách trở. Màu áo xanh năm trước đã tàn phai ý mùa Tư Mã. Bến Tầm Dương nào đó,
lênh đênh dăm bảy con thuyền nát, vài nàng ca kỹ già của Bồ Tùng Linh thôi về
dưới mái Liêu-Trai. Cảm thông ngàn xưa vướng mắc, Vũ bừng tỉnh và nhận thức
cuộc sống với giá trị thực thể của nó đi theo nhịp tiến hóa. Vũ không phải
sống, phải ăn, phải thở, phải chịu nhiều phiền muộn về vật chất như mọi người.
Vũ đau đớn tháo gỡ từng mảnh xiêm tàn vấn vương tâm tưởng. Vũ nhìn thẳng vào
cuộc sống ở mỗi góc cạnh suy tư. Vũ chấp nhận thực tại tức là Vũ đã nhìn rõ vị
trí kiếp người. Do đấy, lời và ý trong thơ Vũ đã chuyển hướng. Nó trình bày
những hình ảnh mới với thể thơ Nhị thập bát tú.
“Cánh tay đô thị
vươn dài
Báo hoa cọp gấm tàn phai mộng rừng
Một thời hương sắc trên lưng
Đổ theo dòng suối rưng rưng bóng tà”
Báo hoa cọp gấm tàn phai mộng rừng
Một thời hương sắc trên lưng
Đổ theo dòng suối rưng rưng bóng tà”
(Rừng hết mùa thiêng,
Nhị thập bát tú, Tập 2)
Hoặc:
Hoặc:
“Dấu mũ trên chữ
A
Là chim bay lộn ngược
Trên nền giấy trắng bao la
Trùng dương dịu dàng in lấy bóng
Chim bay dìu mây bay…
....................
Hoả sơn cười sặc sụa
Rung chuyển vòng đai biển Thái Bình
Một lần nữa uốn cong lưỡi lửa
Ngùn ngụt thi nhau tập đánh vần
Một phụ âm và hai nguyên âm…”
Là chim bay lộn ngược
Trên nền giấy trắng bao la
Trùng dương dịu dàng in lấy bóng
Chim bay dìu mây bay…
....................
Hoả sơn cười sặc sụa
Rung chuyển vòng đai biển Thái Bình
Một lần nữa uốn cong lưỡi lửa
Ngùn ngụt thi nhau tập đánh vần
Một phụ âm và hai nguyên âm…”
(Khai sinh, Trời một
phương)
Vần và ý thơ rất mới
chẳng những đối với Vũ mà còn làm bỡ ngỡ người quen đọc Vũ với hàng thơ đẹp,
reo vang như tiếng vó ngựa đập lưng đèo. Nhưng không phải cứ đổi mới, cứ thoát
xác là xong nhiệm vụ, là tước bỏ được mặc cảm. Vũ càng đi sâu vào cái mới bao
nhiêu thì niềm khổ đau lại dâng lên bấy nhiêu. Ý thức khổ đau không buông tha con
người đã quá chiều ước vọng. Trong cõi mông lung của Vô Cùng, Vũ lại mập mờ
nhìn thấy hình ảnh mình thất thểu trên tấm màn vân cẩu. Thời gian cứ trôi bình
thản theo nhịp chuyển dịch của Vũ Trụ. Con người cứ mòn mỏi theo tháng năm vô
nghĩa. Sự góp mặt tạm bợ này Vũ đã biết, đã suy luận về nó rất nhiều. Bởi vậy,
Vũ vẫn coi nguồn khổ não như ân sủng thiêng liêng và giá trị cõi sống không sao
thoát được vùng kiềm tở của bẩy dây tình oan nghiệt. Vũ đối diện với lửa bấc
hằng đêm để soi tỏ bản thân trước số phận con người lê thê bào ảnh. Vũ uống
từng giọt mật đắng chảy qua tâm trí, ngấm vào huyết quản làm khô dần ý sống. Vũ
giận dỗi, vùng lên nắm chặt lấy khổ đau mà nguyền rủa. Nhưng tiếng thơ oán hờn
vẫn vang lên nhịp điệu thê thiết ngàn kiếp không phai:
“Đo màu mây sớm
nét mưa chiều
Đo cả hơi đàn cả tiếng tiêu
Con số ra tay đè nén mãi
Con người phận mỏng đến bao nhiêu”.
Đo cả hơi đàn cả tiếng tiêu
Con số ra tay đè nén mãi
Con người phận mỏng đến bao nhiêu”.
(Phương trình số
phận, Nhị thập bát tú, Tập 2)
Con người phận mỏng
lắm nếu đem so với phương trình vũ trụ. Con người chỉ là “hạt cát bên sông Hằng”,
cái chớp mắt, cái vi-ti-sinh-vật đối với thế giới bên ngoài. Khoa học đã chứng
nghiệm sự thực bằng phát minh, bằng con số bắt mọi người chấp nhận. Vũ tức giận
sự lũng đoạn của khoa học trong địa hạt tâm linh, chính vì vậy, Vũ phải mang ý
thức khổ đau, có lẽ, tới khi vắng mặt!
Tiếng thở dài
và ý niệm giải thoát
“Từ khi trái đất
ra đi
Lệ chia phôi đã xanh rì trùng dương…”
Lệ chia phôi đã xanh rì trùng dương…”
Thơ Vũ là tiếng thở
dài của phương Đông trầm mặc. Tiếng thở dài đó cất lên giữa vòm trời rất đỗi
buồn thương, ray rứt trong mỗi vần điệu. Sau những cố gắng đi tìm cho chính
mình luồng sinh khí mới, nếp suy cảm mới, rốt cuộc, tiếng nói của Vũ vẫn nguyên
vẹn là niềm u uất, mệt mỏi, chán chường! Vũ muốn dìm chết dĩ vãng trong
Trời-Quên-Lửa-Khói, nhưng sau mỗi cơn say tự dưới đáy vực, Vũ cảm thấy tâm hồn
mình càng lún sâu xuống Địa-Ngục-Quá-Khứ. Nó quật ngã Vũ lúc nào nó muốn. Nó là
định mệnh. Nó bám riết lấy Vũ với dằn vặt trường miên, với hờn thương vô độ. Nó
nhập vào thơ Vũ. Nó chứng minh sự phai tàn của một thế hệ. Nó ghi dấu thời gian
như vết xe lướt qua mặt đường lầy lội. Thật vô ích và xiết bao đau đớn, đêm đêm
nhìn nhớ thương toả dài theo lửa khói ròi chìm lắng vào Hư-Vô câm tiếng.
Thơ Vũ là cơn đau đứt
nối với số phận riêng lẻ. Thơ Vũ không chuyên chở những món hàng hợp thời trang
cùng chân dung thê thảm của chiến tranh có đây, hoặc tỏ bày thái độ trước cuộc
đời hôm nay. Thơ Vũ đơn côi giữa nguồn sống đang dâng trùng trùng lớp lớp.
Chính vì thế thơ Vũ tồn tại.
Niềm chia ly cách trở
do núi sông, nhân thế cộng với tháng năm tủi nhục, Vũ đi tìm vùng an nghỉ cho
tâm linh. Vũ muốn được giải thoát bằng ý niệm siêu hình, bằng cách phóng hồn
vào hư-không-tuyệt-đối. Vũ đi tìm Đạo. Vũ muốn dứt bở cái xác phàm hệ luỵ bởi
cơm áo, yêu thương, hờn giận này đi. Cõi sống làm Vũ chán ngán. Vũ đã uống nó
đau khổ, hút say phiền muộn! Cuộc đời nào đó có gì cho ta mong đợi?
“Bụi đỏ phai màu
nhân sự
Trang đạo lý thơm tho từng nét chữ
Mười ngón tay dan díu cõi Vô hình
Xác tục lâng lâng chờ cơn gió hiển linh
Ai xưa quên ngày tháng hát vong tình
Kìa phương Nam, hoa nở ngát lời kinh
Dằng dặc trầm luân mấy độ
Thuyền ta trôi hề ý ta bay
Sương in bóng nguyệt không mà có
Hay có mà không nhỉ gã say?”…
Trang đạo lý thơm tho từng nét chữ
Mười ngón tay dan díu cõi Vô hình
Xác tục lâng lâng chờ cơn gió hiển linh
Ai xưa quên ngày tháng hát vong tình
Kìa phương Nam, hoa nở ngát lời kinh
Dằng dặc trầm luân mấy độ
Thuyền ta trôi hề ý ta bay
Sương in bóng nguyệt không mà có
Hay có mà không nhỉ gã say?”…
(Bài ca siêu thoát,
Rừng phong)
Ngọn lửa Từ Bi cháy
ngùn ngụt giữa đường nhân thế làm sáng ngời cửa Phật, soi đường cho Vũ tìm thấy
chân lý cuộc đời. Vũ dân hiến linh hồn mình cho đấng Thích Ca, cho cõi
Vô-Cùng-Siêu-Thoát. Từ lâu, Vũ nghe được tiếng cá thở than, hôm nay, Vũ đã sõi
tiếng rừng cây, Vũ chỉ chờ ngày hiểu được bề sâu của lòng đất là thoả nguyện
ước mơ cuối đường.
“Nghe được từ lâu
cá thở than
Hôm nay mới sõi tiếng cây ngàn
Bao giờ tôi hiểu sâu lòng đất
Là thấy đường lên cõi Niết Bàn”.
Hôm nay mới sõi tiếng cây ngàn
Bao giờ tôi hiểu sâu lòng đất
Là thấy đường lên cõi Niết Bàn”.
(Nhị thập bát tú, Tập
2)
Là đây, niềm hoài
vọng của con người Thơ qua bao nhiêu hệ luỵ giờ đây còn lại người gì? Cuộc đời
có, không, không, có, nào ai biết được, hay cũng chỉ như:
“Ca trùng lửa đóm
Cũng hoàn phản hư không dù lăng ngà cỏ khâu…”
Cũng hoàn phản hư không dù lăng ngà cỏ khâu…”
(Tụng kinh kha)
Cách đây 27 năm, vào
buổi tối đầu thu, thành phố Hà Nội vừa lên đèn. Gió từ bờ Hồng Hà thổi nghe
thấm lạnh. Những chiếc lá đầu mùa đã thả xuống lề đường làm duyên cho thành
phố. Nguyễn Đức Nùng, người bạn cùng trường đưa tôi đến gặp Vũ Hoàng Chương tại
một căn nhà cổ, sau đến Bà Kiệu. Đến nơi tôi gặp thêm Đinh Hùng, Lê Trọng Quỹ
cùng vài ba bạn khác. Căn nhà thấp, rất thấp, tối om om. Đó đây từng ngọn dạ
đăng cháy lập lờ không soi tỏ mỗi khuôn mặt. Tôi được giới thiệu với Vũ và các
bạn. Hình ảnh đầu tiên ghi nhận ở Vũ, đến hôm nay còn in rõ trong tôi như vết
tích không phai với thời gian, đó là một thanh niên mảnh mai chìm khuất dưới bộ
bà ba trắng đã ngả màu, nằm nghiêng bên ngọn dạ đăng ma quái. Vũ đưa mắt nhìn
tôi mà tôi tưởng như Vũ nhìn vào khoảng trống. Đôi mắt ấy toát ra ánh sáng kỳ
lạ. Nó lóe lên giống tia chớp rồi vụt tắt giữa màu mây nặng trĩu hơi mưa. Vũ
nằm bất động như thiếp vào cơn mơ bỏ dở. Hương nha phiến chập chờn quyến rũ.
Lát sau nghe chừng đã hả cơn say, Vũ mời tôi vào thăm quê Nâu. Tôi từ chối. Vũ
nhếch môi cười – “Toa” không chịu vui với anh em thì đến đây làm gì? Tôi định
trả lời, tôi đến vì mê thơ chứ không vì mê khói. Nhưng Nùng đã vội nói – “Moa”
biết, nó chỉ thích thể thao và con gái thôi. Mặc nó! Tôi bẽn lẽn ngồi như cậu
bé bị kể tội. Lê Trọng Quỹ nằm gần đây, cất tiếng ngâm thơ. Giọng ngâm của Quỹ
sang sảng, ấm lạ thường. Tiếng thơ dìu theo khói thuốc gây cho tôi ấn tượng là
lạ vì chưa một lần được biết. Quỹ ngâm bài “Mười hai tháng sáu” trong tập Mây
của Vũ, do nhà Đời Nay vừa xuất bản. Chính thi phẩm này đã đưa Vũ lên tột đỉnh
của trời Thơ thuở ấy. Vũ gõ que sắt vào thành chén giữ nhịp, đôi mắt nhắm lại
như không muốn thấy sự vật xung quanh. Tôi biết Vũ đang trở vào giấc ngủ mười
năm lỡ dở. Tiếng ngâm của Quỹ vút lên nhưng bị ngăn trở bởi kích thước không
gian nhỏ hẹp nơi đây nó dội lại, trở thành chua chát, não nề. Tôi choáng váng
rồi thoát mình nhập vào không khí cuồng say lúc nào chẳng biết.
Từ buổi ấy, chúng tôi
là bạn. Chúng tôi thường gặp nhau, nhưng không một lần, Vũ mời tôi chung say
nữa. Tôi mê thơ Vũ đến nỗi thuộc hết tập Mây lúc nào không hay. Tôi còn thích
Vũ ở lối ăn mặc đặc biệt. Vũ thường mặc áo gấm màu lam, đi giày ta, mang khăn
xếp, tay cầm quạt và luôn luôn có đem theo cuốn Liêu trai chí dị của Bồ Tùng
Linh bằng chữ Hán. Vũ đi thất thểu, chậm rãi với phong độ nho gia. Sau đó ít
lâu Vũ về quê nhà ở Nam
Định
Bẵng đi một dạo, cho
tới năm kháng chiến thứ ba, tôi mới gặp Vũ tại Đống Năm thuộc tỉnh Thái Bình,
nhân buổi họp mặt Văn Nghệ. Vũ vẫn thế, chiến tranh không làm Vũ đổi thay từ
bản thân tới suy nghĩ. Chiếc áo gấm năm xưa đã phai màu gió bụi trường chinh,
nhưng phong cách Vũ vẫn y nguyên. Trong thời gian ấy, Vũ làm thơ một phần để tỏ
bày thái độ, một phần để nguôi ngoai tâm sự.
“Mới hôm nào gác
Dì Năm
Lời thơ ai đẹp tiếng cầm ai say
Tang thương một cuộc ai bày
Giấc Thiên Thai để trắng tay Lưu Thần
Xa Cố đô vắng cố nhân
Trái tim mềm trĩu hai lần nhớ thương…”
Lời thơ ai đẹp tiếng cầm ai say
Tang thương một cuộc ai bày
Giấc Thiên Thai để trắng tay Lưu Thần
Xa Cố đô vắng cố nhân
Trái tim mềm trĩu hai lần nhớ thương…”
Lần này chính Vũ ngâm
cho tôi nghe trong một quán nước bên bờ đê. Giọng ngâm của Vũ ấm đục, thê thiết
như vướng nghẹn bởi sương khói quê Nâu. Vũ ngâm thơ như khóc, như hờn tủi, như
cơn đau xé ruột.
Qua những giờ giao
cảm ngắn ngủi đó, chúng tôi lại chia tay với bùi ngùi cách trở, kháng chiến vẫn
kéo dài bước chân tuổi trẻ
Đến năm 1951, chúng
tôi lại thấy nhau ở Hà Nội. Vũ cho biết đang viết vở kịch thơ Tâm sự kẻ sang
Tần. Trong vở kịch thơ này Vũ đã gửi gấm tâm sự mình không ít xuyên qua nhân
vật Cao Tiệm Ly. Vũ đã viết 6 vở kịch thơ, mới in 4 và 14 thi tập. Trong số có
tập Cảm thông do Nguyễn Khang dịch sang Anh ngữ và Nhị thập bát tú được Simone
Kuhnen de la Coeuillerie dịch sang Pháp ngữ với lời tựa của thi hào Ý Lionello
Fiumi, cùng một tuyển tập cũng do S.K. de la Coeuillerie dịch với minh hoạ của
Suzanne Bomhals và phụ bản của Ysabel Beas. Cuốn Tuyển tập được giáo sư André
Guimbretière đề tựa. Thơ Vũ đã vượt biên giới để hoà mình với thi ca thế giới.
Nhưng viết về Vũ mà
bỏ quên hình ảnh người đàn bà mang tên Oanh – người bạn đời của Vũ – kể như
thiếu sót. Người đàn bà ấy nổi danh tài sắc một thời – đã cùng lênh đênh, chìm
nổi theo số phận Vũ. Người đàn bà ấy có tình thương yêu vô lượng, có sức chịu
đựng phi thường. Sự nghiệp của Vũ hôm nay được thành quả, một phần cũng bởi
lòng hy sinh cao cả và ý chí sắt son của tâm hồn khả kính ấy. Trong suốt mười
mấy năm thi phẩm, Vũ chỉ nhắc đến tên Oanh có một lần, trong tập Hoa đăng.
Nhưng thật ra, bóng dáng ấy phảng phất cómặt trên mọi trang thơ vì nó đã dính
liền vào thịt da, vào huyết mạch Vũ từ lâu rồi. Vũ rất nhạy cảm nên dễ giận
hờn. Thực phẩm trần gian quá đắng cay, Vũ phải ẩn nấp vào trời Mây để tìm hương
vị ngọt ngào cho cuộc sống riêng tư.
Việc nhận diện Vũ
Hoàng Chương không mấy khó. Cái khó là viết về người bạn thân. Tôi băn khoăn,
phân vân trước khi viết vì tự nghĩ mình không đủ sáng suốt để tìm hiểu Vũ với
cái nhìn vô tư chăng?
Nhưng đến lúc này,
tôi cảm thấy vơi nhẹ đôi vai.
TẠ TỴ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét