Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014
NGÀN NĂM SAU AI KHÓC CHUYỆN NGÀY NAY
Đứng giữa một nơi gọi là phát triển
Sao trong lòng tê tái chuyện ngang tai
Chuyện trên trời dưới đất không giống ai
Khóc không được lai rai đớp không khí
Đến nước này người ta chưa thức tỉnh
Còn à uôm đổ lỗi cho ai đây
Ngàn con đường ai rào bít chông gai
Hỏi khản cổ không ai trả lời thực
Bao uất hận ném vào ly rượu đục
Rưới xuống cỏ vàng tàn tạ niềm tin
Còn gì đâu mà bảo người dựa dẫm
Sấm chớp ì sèo trên mộ tổ tiên
Ngàn năm sau sẽ nhìn về hiện tại
Chỉ ngỡ ngàng thấy lừa lọc mà thôi
Chút liêm sỉ người coi là xa xỉ
Nhỏ lệ buồn ngồi khóc chuyện xa xưa
C.D.M.
THƠ KHÔNG BÁN
Thơ tung lên mạng có người coi
Chẳng tốn tiền in , chỉ nhắp chơi
Thiên hạ rảnh rang thì cũng nhắp
Một xu chẳng tốn , chỉ huề thôi
Cái thứ văn này là văn ảo
Nhưng nào có nói chuyện xa đời
Chuyện nặng ngàn cân như non Thái
Nào như lông nhạn gió thu rơi
Xin chớ khinh vì không tốn kém
Nhắp giùm gửi tới khắp nơi nơi
Thơ thét ngoài biên thơ thoái lỗ
Thơ gào biển rộng vỡ tung trời
Thơ đập cuồng đồ đầy tham vọng
Rồi đây chúng sẽ bị tơi bời
C.D.M.
GIÁNG XƯA
Thơ nhạc năm xưa nhớ dáng xưa
Giáng Hương xưa tỏa xuống mùi hương
Ai bảo em từ cung Đâu Xuất
Bước xuống trần thoắt hiện thành thơ
Một chiều êm êm trăng rải thành thơ
Đâu đó đầy thơ cuống quýt đợi chờ
Em bước tới nhẹ như làn gió thoảng
Lời vi vu hò hẹn đến bây giờ
Ta bước suốt thiên đường không mệt mỏi
Sợ lời em huyền diệu nhẹ như mây
Nâng niu mãi giọt tình em thả xuống
Như nước cành dương xoa dịu tim này
C.D.M.
CHIỀU VẮNG NGHE VỀ XƯA
Hiu quạnh mây lười bay
Gió buồn nhớ ủ rũ
Trăng bên ghềnh nghiêng say
Lắng nghe về người cũ
Mưa nhắn ai mưa rơi
Nhiều giọt mưa thổ lộ
Lòng ta buồn lắm đó
Trời cũng buồn mưa ơi
C.D.M.
Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014
HỔNG ĐẾN TRƯỜNG
Thương trẻ đầu xanh phải đến trường
Bơ vơ mù mịt một màn sương
Người ta dạy dỗ toàn chuyện láo
Vô cảm chuyện đời mắt ếch dương
Ngờ nghệch thi đua kế hoạch nhỏ
Tranh dành thành tích thấy mà thương
Tức mình nhắn nhủ đàn con cháu
Thà dốt thì thôi hổng đến trường
C.D.M.
MÊ MỆT VỢ NGƯỜI
Nằm nhà tưởng tượng cũng vui
Vợ người trên mạng xài hoài , tốn đâu !
Thú này vẫn lấy làm đầu
Mút mùa mê mệt chẳng cầu đâu xa
Nhắp chuột một cái ... thế là ...
Ngồi nhà cũng đủ ta bà vui chơi
Xin bạn bốn phương chớ cười
C.D.M.
NÍU TIẾNG GÓT .....
Mới thương nhau như đã ...
Từ kiếp trước hay là ...
Thời gian sao đã vội ...
Chưa đủ tâm sự mà ...
Mỗi bước nghe mỗi xót ...
Cuối đường sao thấy xa ...
Ta níu mãi tiếng gót ...
Cùng em đi dạo và ...
C.D.M.
NHỚ TIẾNG CHUÔNG XƯA
NHỚ TIẾNG CHUÔNG XƯA
Tiếng chuông nay reo vui giữa phố
Giục ngưới công đức để chia nhau
Thả chim bệnh để ta bắt lại
Phật cầm tiền giúp ! Được tiêu đâu ?
Ta đi hết một vòng chùa lớn
Đẹp ôi chao ! Xanh đỏ lắm mầu !
Kìa là ông Bồ Tát hiện đại !
Thỉnh cầu ông phước lộc dài lâu
Chuông nhộn nhịp tuyên truyền khắp nẻo
Lòng dân ta quay quắt trăm đường
Tiếng chuông xưa tỏa trùm thôn xóm
Như quyện hồn ấm áp tình thương
C.D.M.
ÔNG PHỖNG
Người đâu tên họ là chi
Hỏi rồi hỉ hỉ hi hi chết cười
Cái tên khó đọc quá trời
Thế mà họ bảo giống người Việt Nam
Thấy ông phỗng tức mình chửi đổng
Cớ làm sao kèn trống tới nơi đây
Hay ngắm nhìn hoa cỏ nước non này
Thấy ngon quá muốn làm ngay trưởng hội
Đại Đế lập cao đầu trán hói
Tiểu dân đê thủ dạ dày teo
Tâm sự này gửi ông bấy nhiêu
Chẳng như ông đặt điều nói khoác
Thuyết viển vông toàn câu khinh bạc
Không nợ không duyên thôi tạm biệt
Kể cháu con cho biết chuyện đâu đâu
Hiểu chăng ? Chẳng thấy gật đầu !
C.D.M.
Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014
GHÊ ĐÁ
Ghế đá mênh mang mênh mang
Ngồi sân vắng
Bâng khuâng bâng khuâng nhớ
Một chú chim sẻ bay qua
Ngây thơ nhìn ta
Hình như em còn nhắn nhủ
Hình như ta nghe xót xa
Tiếng vỗ cánh từ kiếp nào thế nhỉ
Không còn dấu vết quanh đây
Nhìn ghế đá như động vào tim lạnh
À ! Thì ra chỗ em vẫn ngồi
C.D.M.
Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2014
LỐI XƯA XE NGỰA
Đường Phú Nhuận khi xưa êm ả
Sáng chiều ấm áp tiếng nghe quen
Gã thư sinh hai mươi vào đất mới
Mang trong lòng nhiều giấc mộng mới nhen
Đường tĩnh lặng nhiều cây xanh bóng mát
Người nông dân lên tỉnh gánh rau tươi
Thanh bình quá chim ca và hoa nở
Trên môi chất phác nụ cười
Năm mươi năm đổi thay mà chóng mặt
Bê tông sắt thép lấn rêu tường
Ta nhắm mắt trôi về ngày tháng cũ
Còn dư âm tiếng lóc cóc bên đường
C.D.M.
Thứ Hai, 21 tháng 7, 2014
TẠP CHÍ SÁNG TẠO TRONG KÝ ỨC MỘT NGƯỜI ĐỌC
Tản mạn
TẠP CHÍ SÁNG TẠO,
TRONG KÝ ỨC MỘT NGƯỜI ĐỌC
Tôi vừa 17 vào năm 1956, đã vào Sài Gòn sống được hơn một năm, đang đi học, đang làm quen với một thế giới khác qua giọng nói đầy phương ngữ, qua những món ăn chưa thấy bao giờ, qua cách sống dung dị với tờ giấy bạc xé đôi khi cần tiêu một nửa…Và, nhất là qua một bối cảnh lịch sử đang dường như thiếu thời gian cho sự đòi hỏi một vận động triệt để: cuộc chiến tranh chống Pháp đang loay hoay một cách lý giải tại đô thị miền Nam. Và với một đứa bé có chút máu mê văn chương thì đó còn là bắt đầu một quá trình làm quen với những “luống cày” văn học mà người cày không ai khác hơn là nhóm Tạp chí Sáng Tạo.
Trên nửa thế kỷ đã đi qua, những biến thiên lịch sử, xã hội mà tôi bị cuốn vào đó đã san lấp ký ức tôi, có thể nói đã một lần phá hủy tôi khi mà sách báo gom góp bao nhiêu năm (trong đó có Sáng Tạo) đã phải nộp để đốt theo lệnh nhà chức trách trong năm 1975. Bây giờ còn gì chăng chỉ là ký ức có phần mòn mỏi nhưng tôi nhất quyết níu lấy nó khi viết bài này thay vì có thể tìm vào một thư viện nào đó…
Tháng 10 - 1956, Tạp chí Sáng Tạo ra đời tại Sài Gòn như một sự "nổi loạn", một "chất nổ phá đổ cái cũ, tạo dựng cái mới" mà ngay cả hình thức trình bày, ấn loát cũng vậy. Trên Sáng Tạo xuất hiện những tên tuổi chưa một thời xuất hiện như nhà văn tên tuổi, họ từ miền Bắc vào trong cuộc di cư 1954 : Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Quách Thoại, Nguyên Sa…
Họ tạo dựng cái mới như thế nào? Mai Thảo viết:"Những trào lưu cạn dòng phải nhượng bộ rứt thoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế. [...] Cái vấn đề lớn nhất của chúng ta bây giờ, trước sau vẫn là phải làm sao đoạn tuyệt được hoàn toàn với những ám ảnh và những tàn tích của quá khứ [...]. Công tác chặt đứt với những trói buộc cũ phải được đặt lên hàng đầu ... và thơ bây giờ là thơ tự do”. Thanh Tâm Tuyền định nghĩa nổi loạn: "Nổi loạn là một hành động đòi được gia nhập đời sống: Kẻ nô lệ đòi quyền sống như những người tự do. Như thế nổi loạn là điều kiện sáng tạo." (Những chi tiết này tôi lấy được trên Internet)
Trên thực tế, Sáng Tạo đặt vấn đề một cách rốt ráo hơn so với Tự Lực Văn Ðoàn những năm 39 – 45. Văn chương không phải công cụ xã hội của âu hóa của một xã hội VN cũ kỹ, mà đã có suy tư là : Có thể có tác phẩm văn học hay không? Có thể có một cuốn tiểu thuyết, một kịch bản, một bài thơ được không? Chữ nghĩa có giá trị gì? Ðặt lại vấn đề viết, viết như thế nào? Lối viết kể chuyện, có cốt truyện, và cả lối viết hiện thực, tả chân kiểu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng ... đã lỗi thời vì không đạt tới tận cùng tính cách chính xác và xác thực. Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền là một ví dụ về cách viết, cách đặt lại vấn đề viết.
Tôi cũng tìm được sụ nhất trí với một tác giả viết tern internet: Thổi nguồn gió mới vào thời đại của họ, thay đổi bộ mặt văn học nghệ thuật, Sáng Tạo đã thành công trong việc hiện đại hóa văn học, đem hai dòng mạch lớn của thế kỷ XX vào văn học Việt: Dòng hiện sinh và dòng siêu thực, với những tính chất nền tảng: Hoài nghi và Mộng tưởng.
Lớp người đọc 16, 17 chúng tôi đến đó bắt đầu biết đến Sartre, Camus, đến dấn thân, đến biện chứng của Sartre…Tôi không quên khi Sáng Tạo đang “vỡ đất” thì Nhất Linh xuống núi và tờ Phong Hóa Ngày Nay của ông tại Sài Gòn nhanh chóng thành tạp chí của..ngày xưa mà không một dòng điếu văn nào cả!
Sáng Tạo đặt lại vấn đề một cách kinh ngạc cho bọn chúng tôi khi ấy. Tác phẩm văn học có phải chỉ là công cụ, phương tiện thực hiện những luận đề như cả ngàn năm trước kia? Hay nó chính là cứu cánh? Có thể có một cuốn tiểu thuyết, một kịch bản, một bài thơ được không? Chữ nghĩa có giá trị gì? Ðặt lại vấn đề viết . Viết như thế nào? . Tác phẩm không cần kết luận, mà tác phẩm trình bầy một biện chứng, một thẩm mỹ của sự dang dở, mở cửa cho những suy nghĩ khác và sẵn sàng chờ đón những nối tiếp về sau.
Tác phẩm không còn nhiệm vụ khơi gợi cảm xúc và làm mủi lòng theo nghĩa lãng mạn, mà tác phẩm gây nỗi đau, gây khó chịu bằng nhận thức. Sáng Tạo là một khúc quanh văn chương lớn lao và cũng là khúc quanh gấp.
Trước nó, văn chương tại chỗ (tôi nghĩ Hồ Biểu Chánh là đại diện) loay hoay những mối tình éo le, mùi mẫn, nhân vật phần đông cam chịu dưới một tâm lý hời hợt mà không có bi kịch. Và dòng văn chương Tự Lực văn đoàn thì đến khi đất nước chia đôi dọn vào miền Nam cũng chỉ còn biết tá túc trong những ngày tàn của môt thứ văn chương luận đề mà vào hoàn cảnh mới đã không còn “chính nghĩa” nữa. Có một nửa nước với một chế độ chính trị xã hội mới thì cũng đòi hỏi tự do sáng tác và đổi mới tư duy văn học trổi dậy phù hợp. Có vẻ như đã có khuynh hướng quên đi văn chương 9 năm chống Pháp, tôi nghĩ động cơ không phải chính trị mà là do khao khát cái mới mà nhóm Sáng Tạo là thành phần chủ công tuy có “xa rời quần chúng” nhưng lại được chính quần chúng đón nhận, ít ra cũng là thành phần “ưu tú” của quần chúng văn học thời đó.
Ngày ấy và đến bây giờ, với tôi nhân vật đình đám củaSáng Tạo - như một nhân vật tiểu thuyết – không ai khác hơn Thanh Tâm Tuyền, cái đáng nhớ là ở chỗ ông vừa đột phá về tiểu thuyết vừa tiên phong khai phá thơ tự do.
Thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền hoàn toàn phá bỏ những cấu trúc như lối thơ cũ và quan niệm nghệ thuật theo tinh thần Dionysos nổi loạn chống lại sự hài hòa theo tinh thần Apollon. “Người làm thơ không tạo những hình dáng cho cuộc đời vốn đã là một hình dáng, họ muốn nhìn thực tế bằng con mắt trợn tròn, căng thẳng phá vỡ hết mọi hình dáng để sự vật hiện ra với cái thực chất hỗn loạn không che đậy." Đó là những câu ông viết năm 19 tuổi (1955), mà các nhà phê bình xem như là tuyên ngôn về thơ tự do. Thanh Tâm Tuyền quan niệm rằng: "Thơ tự do không gieo vần lối đồng âm, đồng thanh, vần của nó là vần ẩn giấu cách xa (có thể đi tới khác âm, nghịch thanh), nhịp điệu của nó là sự phối hợp của một toàn thể không khuôn trong một số câu nhất định khiến cho hơi thơ tự do dễ kéo dài hơn các hơi thơ khác". Ngoài ra ông còn đề cập đến loại nhịp điệu của hình ảnh và ý tưởng, nói chung đó là nhịp điệu của ý thức.(Từ Internet)
Trong thơ ông còn dùng kỹ thuật tạo hình lập thể và siêu thực: coi đời sống là những mảng đứt đoạn, thực tại là một chuỗi liên tục những mảng đứt đoạn ấy và tiềm thức là nguồn sáng tạo vô biên.
Gần đây tôi đọc được nhận định của một người rằng Thơ Thanh Tâm Tuyền thường không phải là tiếng nói hay lối suy tưởng thông dụng và những hình ảnh quá khác biệt đặt cạnh nhau trong thơ ông theo kỹ thuật tạo hình siêu thực khiến người đọc khó thấy hết ý nghĩa ẩn dụ chứa trong đó:
Đêm giao thừa thế kỷ mưa rơi sao
mái sáng đường nằm chiêm bao biển giận dỗi
bàn tay mây mắt trăng môi nhiệt đới
Đó là những hình ảnh khác lạ chưa bao giờ thấy trong thi ca Việt Nam: Đêm giao thừa thế kỷ, mưa rơi sao, ..., bàn tay mây, mắt trăng, môi nhiệt đới. Và những hình ảnh thật đẹp, ta đã quá quen thuộc cũng xuất phát từ thơ ông: đêm màu hồng, lệ đá xanh, nắng thủy tinh ... : "Hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền là người dẫn đường, người tiên phong đem siêu thực vào Việt Nam một cách có hệ thống và đã tạo ra những câu thơ mới nhất, giàu hình ảnh nhất trong thơ Việt". Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã phẫn nộ, đau đớn, mong được khóc la, được run giận, ... bằng chính thể xác của những cặp uyên ương trong thành phố Budapest để thông cảm đến tận cùng những nỗi thống khổ vô biên của họ:
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
. . . .
Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai
. . . .
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp
lời thơ giản dị nhưng cách diễn tả mới lạ, vần điệu biến mất chỉ còn là hình ảnh, những câu thơ dài ngắn khác nhau hầu như được sắp xếp theo những ảnh tượng và cảm xúc trào dâng trong tâm hồn tác giả mà tác giả cho đó là loại nhịp điệu của ý tưởng, của hình ảnh. Đây là bài thơ tự do thật hay, gây xúc động mạnh và được nhiều người yêu thơ thời đó truyền tụng, đọc thuộc.
Thơ Thanh Tâm Tuyền đầy tình nhân ái. Giọt lệ sầu thảm của những kẻ cô đơn cứ chảy mãi, chảy mãi trong đớn đau đến hóa thành những viên đá xanh và tim của những viên đá ấy cũng phải rũ rượi! Đó là những hình tượng đẹp trong thơ văn:
Tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
em biết không
lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi
Tổ quốc, trời xanh nín lặng; cuộc sống không lối thoát bủa vây và bóp chết mọi hy vọng, tuổi trẻ thì quá buồn; những kẻ yêu nhau đôi lúc phải tìm cách trốn thoát thực tại, trốn thoát những dày vò khổ đau sẽ đến trong những ngày sắp tới:
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hy vọng
Nên anh dìu em đi xa
Đi đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Đi đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Để anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà Nội
Anh là thằng điên khùng
ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới.
Chiếc kèn hát mãi than van
Điệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Tuổi trẻ sao quá buồn
Như con mắt giận dữ
Tuổi trẻ sao quá buồn
như bàn ghế không bầy
Thôi em hãy đứng dậy
Người bán hàng đã ngủ sau quầy
Anh đưa em đi trốn
Những dày vò ngày mai.
Đọc thơ Thanh Tâm Tuyền là đi vào những thiên đường của dĩ vãng, của hoài niệm và ký ức. Ông quả thật là mang tâm hồn thi sĩ đa tình, mẫn cảm. Dòng thơ của ông đem đến cho ta muôn vàn cảm xúc giản dị và gần gũi. Xét cho cùng nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã cống hiến cho nền văn học Việt Nam những dòng thơ tràn ắp thi vị thi ảnh, được viết lên từ những khát vọng của tự do, từ những cái nhìn linh cảm về những chặng đường của cuộc đời mà ông đã đi qua ( Internet)
Về nội dung chính yếu, chất liệu trong thơ văn Thanh Tâm Tuyền là ý thức thất bại. Thất bại của con người trước định mệnh nói chung, cụ thể là sự bất lực của giai cấp trí thức tiểu tư sản Việt Nam trước thời cuộc. Viết văn, làm thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt qua sự thất bại đó, biến nó thành nghệ thuật.
*
Bếp Lửa là một truyện vừa đầu tay của Thanh Tâm Tuyền. Truyện được viết từ ngôi thứ nhất “tôi” tên Tâm, dạy tư thục ở Hà Đông, khoảng 1952.
Không phải là tự truyện, nhưng Bếp lửa phản ánh tâm trạng tác giả, và một số thanh niên đồng lứa vào thời điểm trước hiệp định Genève 1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận dưới sự kiểm soát của Pháp. Chủ yếu là những nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sắc về tâm thức chính trị của con người lúc đó qua những nhân vật: ông Chính, đảng viên Quốc dân Đảng, còn hoạt động; Bảo có tham dự phong trào Ngũ xã nhưng nay đã tuyệt vọng; Đại say đắm chủ nghĩa mác-xít và chuẩn bị ra khu; Hoà nhân viên Phòng nhì; Ngọc hoàn toàn hư vô và chối từ tổ quốc… Giữa họ là những nhân vật nữ, hiền lành, vô tội, như chị em Thanh và Minh, em họ Tâm; Hạnh; Thịnh vào ra giữa hai vùng… Còn Tâm? Anh xê dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và nói như Meursault, nhân vật Người xa lạ : không biết rõ mình muốn gì, nhưng biết rõ những điều mình không muốn. Khi Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi việc, “ngạc nhiên một chút rồi tôi không hỏi vì cớ gì ông muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đã quên không nói cho tôi biết… Tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một giấc rất say” Trong thế giới ấy, quan hệ tình cảm cũng mong manh, sắc sắc không không, như giữa Tâm và Thanh, một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ. «Đôi khi tôi nghĩ tôi có thể yêu Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích giữa cúng tôi không đáng kể (…) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của tôi cả”.
Quan hệ tính dục cũng nhẹ nhàng thôi. Tâm gặp lại Hạnh, “chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn” . «Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh – hay chỉ cần sự đe doạ của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương (…).”.
Vào năm 1965 khi truyện ngắn Dọc Đường của nhà văn Thanh Tâm Tuyền ra đời thì thời điểm này cũng là khi các thành thị lớn nhỏ của Sài Gòn bị lọt thỏm trong chiến cuộc mà ngày và đêm trở thành ranh giới cho không ít những phận người. Lúc ấy tôi 26 tuổi, và đọc “Dọc Đường” với một cảm giác rùng mình nổi da gà, 49 năm qua đi nhưng đến nay cảm giác ấy vẫn còn rất sắc sảo.
Không gian và cảnh tượng chỉ là một buổi chiều chạng vạng ở một dãy phố chợ tạm bợ nằm dọc quốc lộ chạy qua một khu rừng cao su. Và cũng như cái không gian không tên riêng, những nhân vật của “Dọc Đường” cũng chỉ được gọi theo giới tính, độ tuổi... hoặc một nét nhận dạng bất kỳ nào đó. “Người đàn ông ngồi ngoài cùng kế cây cột chống, mặc áo lá quần xà lỏn, một chân co lên ghế, tay bưng ly cà phê uống từ hớp nhỏ. Người đàn ông liền bên vận quần áo kaki sờn rách, đầu đội nón bẻ vành, chân đi giày không vớ, cầm chiếc muỗng nhỏ xíu gõ nhịp lên bàn. Người ngồi tách riêng một phía già hơn hết, tóc tiêu muối, vận quần lnh đen bám bụi đỏ, áo túi trắng ngả màu.”
Sống ở cái nơi như thế, trong bối cảnh cuộc chiến tranh đã tới hồi gay cấn, điều quan tâm của nhóm người này là một... con đường có những chuyến xe đủ loại chạy qua biểu hiện của sự thông suốt liền lạc mà bất cứ lúc nào cũng có thể không còn như thế. Vào thời buổi ấy, trời càng về chiều xe càng chạy bán sống bán chết cho kịp tránh bóng đêm khi đường , rừng được “bàn giao”. Không khí chiến tranh được dẫn vào truyện đơn giản như một thói quen chờ đợi như vậy. Nghệ thuật hiển thị sự việc của Thanh Tâm Tuyền là rất điêu luyện, chúng cứ lộ diện từ từ từng chút một, từ câu nói vu vơ “Tối nay thế nào cũng có hành quân” đến “Đậu cái này rồi về tía” ,“Tụi bay tuột dù hết rồi. Máy bay trực thăng đó.” Toàn là những lời vô tư ngắn gọn phục vụ đánh bài như thế. Vài phút sau, tiếng động cơ nổi rõ hơn, tới gần... Chiếc trực thăng bay sà thấp ngang qua quán. Hai người dân vệ từ trong lối xóm trở ra, chân mang giầy bó túm ống quần bám sình vì bụi đất: một người đeo súng hai tay bưng trên miệng húyt vào chiếc lá tre non kêu chít chít từng hồi như tiếng chim, một người quàng hai tay trên hai đầu súng đặt nằm ngang cần cổ ngó phía trước, cả hai mặc đồ đen đội những chiếc nón vải đen có lưỡi. Lính chuẩn bị co rút vào đồn vì đã tới giờ bóng đêm không là của họ, còn một số người dân thì sửa soạn về ngủ tạm tại một thành phố gần đó, như loài chim di trú trốn tuyết. Người đàn bà không có cái ưu tiên...được sợ chết này, nói với chồng:
- Mấy cha chỉ bầy chuyện đi chơi không à!
- Tao là đàn ông mầy nghe chưa? Ở nhà để lỡ như lần trước... Tao ở nhà… Đ. m. thứ đàn bà ngu!
Ngay lúc ấy một chiếc xe có thể là cuối cùng từ từ đi qua hết đoạn đường rào kẽm gai đậu trước quán hớt tóc. Người lơ xe nhảy xuống đất kêu vô trong:
- Xuống lẹ lên cha nội. Một người đàn ông tay ôm bọc giấy dầu, lom khom bước xuống. Tới đất, người đàn ông lại muốn trở lên, nói
- Không phải đây…
Và chuyện bắt đầu.
Chiếc xe đò rồ ga chạy thẳng vào. Người đàn ông đứng lại bên đường ngơ ngác. Hắn vận bộ bà ba đen, chân đi săng-đan, tóc cắt ngắn, mặt mũi gồ ghề xanh xao. Hắn ngửa mặt nhìn lên trời trông chiếc trực thăng từ phía rừng cao-su bay tới, đứng im rồi hạ thấp trên bãi trống bên kia đường. Một vài người nhìn thấy người đàn ông bận bà ba đen ôm bọc giấy dầu đứng trước quán hớt tóc.
Anh ta đi dần và dừng lại trước nhiều căn nhà mong tìm một chốn nương thân qua đêm. Nhưng nào có ai chứa anh ta? Hai chiếc xe be kềnh càng rần rần từ trong rừng cao-su, xe chạy chậm. Người đàn ông đưa tay lên cao vẫy kêu: Cho quá giang… Hai người tài xế đưa tay vẫy chào và xe vẫn chạy.
Người đàn ông thất vọng lẩm lũi trở vô quán. Người đàn bà chủ quán hỏi
- Chú ở đâu tới?
- Tôi đi kiếm thằng em của tôi làm đồn điền cao-su. Nhưng cái khổ là anh ta không nhớ tên nơi mình muốn đến.
- Chú nói chuyện trời đất không à. Bộ khi không chú ngồi đó không cho tôi đóng cửa tiệm đi ăn cơm hả? Chú tính chuyện gì?
Người đàn ông sửng sốt, giật hai tay ôm gói đồ vào bụng ngó trân người đàn bà:
- Thím cho tôi ngủ đậu. Thím làm phước. Người đàn bà kêu lên:
- Đâu có được chú... Biết chú là người thế nào mà cho ngủ đậu. Lỡ đêm chú cắt cổ tôi sao? Người khách lạ, nhìn mọi thứ, là một người lương thiện bị đánh đồng với những kẻ bất lương bởi người ta sợ hãi hơn là dành chỗ cho lòng nhân ái
- Tôi đi đâu? Thím nghĩ coi…
- Tôi không biết. Mấy người rắc rối lắm.
Người đàn ông ngập ngừng bước ra khỏi quán tiến tới bên cửa một tiệm sửa xe. Và điệp khúc lặp lại, lộ rõ hơn anh ta là kẻ lỡ độ đường
- Anh Hai cho tôi ngủ đậu. Dưới đất cũng được. Mơi tôi đón xe về sớm.
- Bộ anh cho là tôi khùng hả. Cha này kỳ quá…
Ngoài rừng trời chạng vạng nhá nhem. Người đàn ông đi tới bên lề đường. Một vài tiếng đại bác nổ ầm ở xa. Hắn gõ nhẹ lên cánh cửa rồi nghe ngóng... Trời cứ tối dần. Người đàn ông cúi nghiêng xuống ngang mặt với lỗ hổng:
- Tôi lỡ độ đường. (CTC nhấn mạnh)
Một tiếng nổ ầm rung chuyển đất. Lỗ hổng đóng xập lại và tiếng chân chạy trong các nhà, Mọi cửa đều đóng vội. Những tiếng nổ tiếp theo còn cách xa. Người đàn ông dáo dác ngó ra đường. Trên trời phía rừng cao su trái hỏa pháo bắn vọt lên lơ lửng vài phút rồi tắt. Tiếp theo một trái hoả pháo khác.
Người đàn ông đứng ôm bọc giấy bên lu nước .
Tôi còn trong ký ức mấy câu thơ Thanh Tâm Tuyền :
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuồng dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá
Chiều không xanh không tím không hồng
Những ống khói tàu mệt lả
Ngày ấy, tôi cứ lẩm nhẩm những câu thơ có hình ảnh tuyệt vời này và không làm sao quên câu nói của nhân vật trong truyện ngắn Dọc Đường : “Tôi lỡ độ đường”. Bây giờ đây tôi có thể nói được câu nào khác hơn những câu ấy?
CTC 6-2014
SÁNG XUÂN
Xuân Hiểu
Xuân miên bất giác hiểu
Xứ xứ văn đề điểu
Dạ lai phong vũ thanh
Hoa lạc tri đa thiểu
Mạnh Hạo Nhiên
Sáng Xuân
Giấc ngủ xuân quên sáng
Tiếng chim rộn khắp nơi
Đêm mưa chừng gió lộng
Hoa lại rụng nhiều thôi
Phạm Khắc Trí
Sớm Xuân
Ngủ say chẳng thấy trời hồng
Chim ca rộn rã tưng bừng khắp nơi
Đêm qua mưa gió tơi bời
Lắng nghe hoa rụng khiến người thương hoa
C.D.M.
Dậy Muộn
Sáng ra thức dậy mặt nhơn nhơn
Hoa cỏ nhìn ta chẳng biết buồn
Oải bước ra hiên còn ngái ngủ
Hậu Đình ai hát lúc đêm hôm
C.D.M.
KHÔNG DÁM
Ta đứng từ xa ... chiêm ngưỡng thôi
Hình như ... ma lực cứ gọi mời
Râm ran ve giục ... yêu đi chứ
Dợm bước ... rồi thôi ... lại để trôi
C.D.M.
GIÀ CHÁT RỒI ÔI
họa thơ trên mạng
( vần : ôi , thôi , rồi , nồi , xôi )
Già chát nằm ườn chỉ sợ ôi
Hay là ta bỏ quách đi thôi
Nghĩ đi nghĩ lại còn ham tiếc
Nhưng thực tim khô đã quắt rồi
Phở tái tận mồm còn giả bộ
Rằng ta cơm nguội vét nguyên nồi
Ra vào suông đụi thương bà xã
Cúng tạ tơ hồng mấy nắm xôi
C.D.M.
Thứ Năm, 17 tháng 7, 2014
là em
là anh đây khi đã đi khắp ta bà thế giới trở về bên em
là anh đây khi đã uống cả ngàn ly rượu mà cứ ngỡ mình là em
là anh đây khi đã ngàn lần thay áo vẫn không nhìn thấy con tim mình
là anh đây khi đã được nhắc nhở ngàn lần mà vẫn quên tên em
anh gọi mình ngàn lần chẳng thức dậy một ban mai
em là lá , là hoa , là hương thơm , là nhan sắc
anh vái lạy ngàn lần , chẳng đứng lại làn mây bay
anh thấy hình em qua hình anh đáy nước
anh nhảy xuống rồi , tan vỡ cả hai
C.D.M.
Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014
LINH HỒN PHỐ CŨ
Phố cũ không còn cũ
Đường nay không bóng mơ
Cây không hồn tượng đá
Một chàng đứng suội lơ
C.D.M.
CHIỀU VỀ
phỏng dịch Thiên Trường vãn vọng
của Trần Nhân Tông
Thôn xóm bềnh bồng dưới khói mây
Hoàng hôn chệnh choạng ánh tà say
Một đàn cò trắng sà nương lúa
Tiếng sáo trâu về tha thiết bay
C.D.M.
Thứ Hai, 14 tháng 7, 2014
PHÓNG DỊCH THƠ TRẦN NHÂN TÔNG
NGUYỆT
Chán thư ngồi ngó ánh đèn suông
Khí trời êm nhẹ giọt sương vương
Tiếng thánh thót vang từ đâu đó
Trăng vừa đi tới thưởng hoa hương
C.D.M.
THIỀN
Ở chốn bụi trần cứ sướng khoái
Đêm ngủ ngày ăn ấy lẽ thường
Vật báu trong nhà tìm đâu nữa
Sáng ra mở cửa thấy an nhiên
C.D.M.
Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2014
ÁO EM
Ta nhớ ngày xa , xa rất xa
Áo em trắng quá mờ mắt ta
Một trời trinh trắng theo em lại
Gió trôi lờ lững ánh chiều sa
Hương quyện tóc vờn đùa thi sĩ
Vai mềm e thẹn lá vàng rơi
Niềm vui không đủ bàn tay đếm
Tiếng hát êm đềm trong gió lơi
Ướp kín tình nồng sợ gió bay
Đôi tà quyến dụ ánh nhìn ngây
Em đẹp chết người em có biết
Chỉ nhìn cũng đủ ngọt và say
C.D.M.
EM NHƯ TẤM VẢI LỤA ĐÀO
Lụa mềm mơn nhẹ áo em
Tóc xanh rớt xuống lụa mềm đẹp chưa
Lụa đào nắng đẹp trời thưa
Rực lên ánh mắt say xưa nồng nàn
Trời mênh mang , gió lang thang
Ta theo làn gió nhẹ nhàng bên ai
Như mây trôi vạt áo dài
Hương trời phảng phất trang đài mong manh
Như tóc thơ như lụa tình
Như say như tỉnh bên cành đào tiên
Lụa ơi gói hết tình riêng
Cho ta lịm chết bên miền quê thơ
C.D.M.
EM LÀ SÓNG
Nếu em là sóng sông Kiên
Thì tôi chết đuối ai khiêng tôi về
Sóng gì mà mạnh dữ ghê
Ba ngày chết lịm biết mô tê mà hời
Tỉnh ra hỏi sóng đâu rồi
Đổ thêm tấn rượu cho đời lên men
Sông Kiên nước đục người đen
Ai lên Rạch Giá thì quên đường về
Chết mê thì mặc chết mê
Sóng em vỗ mạnh mới hả hê dạ này
Năm mươi năm vẫn còn ngất ngây
C.D.M.
TÂY TẠNG LẠNH LẮM SAO
Người ta nói tại quê anh
Bốn sườn đồi cho bốn mùa trong ngày
Nhưng với tôi
Bốn mùa đó đều lạnh hơn mùa đông Việt Nam
Ôi những người bạn kiên cường
Trên nóc nhà thế giới
Bạn hãnh diện vì có Đạt Lai Lạt Ma
Nhưng chúng tôi không có gì để hãnh diện
Chúng tôi bị giam vào lãnh cung
Rét buốt vô cùng
Vì không được tiếp hơi nóng ấm
Cái rét từ rất lâu
Cứ chập chờn đe dọa
Chúng tôi mong hơi nóng diên hồng
Nâng cao nhiệt huyết Sát Thát
Ôi những ngọn đuốc Bình Than !
C.D.M.
LÝ TOÉT
LÝ TOÉT
Lý Toét ta lên tỉnh học văn minh
Gập Xã Xệ dụ du hành vũ trụ
Toét tí tửng nổ tràn lan đếch sợ
Bèo hoa dâu ta nghiên cứu giúp đời
Nhưng mới bước lò dò hai ba bước
Mắt toét nhoèn Lý ta thấy gì đâu
Bị chàng Xệ bỏ rơi đi mất hút
Toét ta buồn than thở suốt đêm thâu
Chớp thời cơ Bang Bạnh liền trờ tới
Bạn đây này ! Cần giúp đỡ gì không ?
Rồi xổ ruột xổ gan ra tất cả
Chẳng giấu gì bạn chí cốt ! Ừ không ?
Rồi từ đấy Toét ta bèn thờ Bạnh
Nói điều chi cũng răm rắp tuân hành
Vòng Kim Cô Bạnh đem ra tặng bạn
Hãy nhớ từ đây khăng khít đồng tình
Làng xóm bỗng tiêu điều Toét đâu biết
Cứ nhận tiền ông bạn vàng xỉa ra
Toét giương ô lượm tiền cười tí toét
Làng xã rồi đây tan nát thôi mà
C.D.M.
TRĂNG TAN TRÊN QUÊ HƯƠNG
nhân đọc bài
Trăng Tan Trên Quê Hương
của bà Cao Mỵ Nhân
Sông núi tan về muôn nẻo
Bão cuồng nộ cuốn không nương
Độc hại từ đâu tới nhỉ
Ma túy ẩn câu đề cương
Trời nổ trăng vỡ hay sao
Cuốn người hố sâu ba đào
Nắng cháy đổ đầu khó núp
Băng tràn trùm hết đường ra
Bữa qua trăng tan từng mảnh
Bữa nay trăng tan trên sông
Quê hương chỉ toàn tan vỡ
Ngậm ngùi nhìn đêm mông lung
C.D.M.
Thứ Ba, 8 tháng 7, 2014
VẢ VÀO MIỆNG CHÚNG
Tóm cổ thằng Mao đánh mỏi tay
Thằng Lê thằng Mác những thầy mày
Những Mác và Lê mài chẳng sắc
Xít là bọ Xít có gì hay
Học trò thằng Mao mới quá tởm
Đánh cho bẹp tai chẳng chùn tay
Gia đình ủn ỉn nào đáng nói
Đẩy xuống hố phân mà múa may
Trại súc vật này ngộ quá chứ
Ăn bẩn nói toàn chuyện trên mây
C.D.M.
ĐỨA CON ĐẺ NGƯỢC
Ta rặn vần thơ khúc ruột đau
Thương thơ quá đỗi nghĩ lung trời
Từng câu từng chữ tham lam quá
Ôi đứa con hoang đàng
Giữa thời buổi nhiễu nhương
Toàn nói chuyện pha ngang
Nghĩ khổ cả ruột gan
C.D.M.
Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014
THU CHUA CHÁT
Gió thu nổi , đưa mây về đâu
Gió thu nổi hoa cỏ héo sầu
Nước sông quằn quại trôi đau đớn
Núi lở ngang trời những vết đau
Ai buôn thu và ai bán thu
Quê hương vần vũ khói mây mù
Ai tháu cáy và ai bán cái
Chẳng giữ gì chút vốn để đàn sau
Chơi với Lã Bất Vi mà tự hào đắc sách
Bán thu này còn gì nữa bán không
Nghe Triệu Cao ra lệnh không biết nhục
Bảo hươu nói ngựa cũng một lòng
Thu trăn trở vì thu chưa đẻ được
Thu giận hờn vì thu mãi hoang mang
Lòng mong bão nhiều đêm luôn thức trắng
Xóa thu buồn , thu sáng lại giang san
C.D.M.
Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2014
ĐỢI TIẾNG HÈ
Ta đợi ve đợi quốc suốt đêm ngày
Ve ai oán quốc não nùng ta đợi
Bởi lòng ta đang nao nao chới với
Đợi tiếng gì đồng điệu để tri âm
Tiếng ve đều đều như khí hùng giảm xuống
Tiếng quốc dập dồn tiếc nuối bâng khuâng
Tổi tiên ơi có nghe lời quân địch
Réo dập dồn như sóng dữ trào dâng
Xin nhắc kẻ u mê hồn tỉnh lại
Và trao cho kẻ sĩ lưỡi gươm thần
Ánh gươm loáng hơi lửa hè ấm lại
Lộng trời Nam tiếng sát Thát rền vang
C.D.M.
LỜI CÔ ĐƠN CUỐI ĐỜI
Lay lắt cô đơn đến cuối đường
Hồi đầu muốn gửi một lời thương
Đắn đo lại sợ lời thơ vụng
Chẳng khiến người xem khóc cố hương
C.D.M.
KHUYẾT ĐỀ của LƯU TÍCH HƯ ( phóng qịch )
HƯƠNG NẮNG SỚM
Ngút mắt tận đường mây trắng
Cuối khe sắc xuân nhẹ nương
Hoa ơi từ đâu trôi lại
Lững lờ tỏa xa mùi hương
Buồn tênh ngồi nhìn lên núi
Thư phòng xanh liễu mà thương
Trời lên thanh quang u nhã
Áo ta nắng sớm vãi vương
C.D.M.
Thứ Sáu, 4 tháng 7, 2014
HỌA THƠ QUA ĐÈO NGANG
Non nước vần xoay buổi xế tà
Mây sầu gió độc ghẹo ngàn hoa
Trí hờn sôi sục buồn niềm nước
Lòng trải thương tâm thẹn nỗi nhà
Di tản ngậm ngùi đau biệt xứ
Lưu đầy chán ngán chuyện ly gia
Lạc vần thơ quẩn quanh đường liễu
Tiếng vọng phản hồi ta gửi ta
C.D.M.
VỀ THĂM CỐ HƯƠNG
Nghĩ mình thấm khổ nỗi hồi hương
Về gặp người xưa thấy khó thương
Đồng ruộng tiêu điều không năng xuất
Khoai lang bí rợ thối đầy vườn
Buồn thương cảnh cũ khôn ngăn lệ
Dứt áo lìa quê chẳng vấn vương
Tao loạn nhiễu nhương còn tiếp diễn
Cầu trời giáng phúc khỏi tai ương
C.D.M.
BAY VỀ
Ta bay về quê cũ có hương xưa
Hồn ta nhẹ tựa áng mây mờ
Mộng lòng vơ vẩn bên hàng dậu
Nghe tiếng gọi mình bên liếp thưa
Lênh đênh đồng lúa lênh đênh sóng
Dập dờn cò trắng dưới chiều sương
Lá rụng lau thưa người thấp thoáng
Tưởng chừng như có tiếng người thương
Bay vội bên người hơi thở gấp
Nắng chiều hạ giọng hỏi tìm ai
Tỉnh mộng hương còn vương đâu đó
Như là Lưu Nguyễn biệt thiên thai
Dào dạt niềm riêng khôn xiết tả
Dang tay ôm xiết vội hương trời
Gấp vội gặp người người đâu thấy
Bốn bề hoang lạnh dạ chơi vơi
C.D.M.
Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014
MÙA XUÂN KỶ DẬU
Tiếng voi ré vượt Trường Sơn Bắc Tiến
Lá cờ đào phấp phới nét hiên ngang
Triệu con tim dạt dào niềm giết giặc
Cho lũ mày vỡ mộng cướp trời Nam
Thằng Tôn kia theo lệnh lão Càn Long
Vờ giúp Lê chỉ là trò bỉ ổi
Hỡi lũ mi nòi ngàn đời gian dối
Lừa ai kia nào lừa nổi Quang Trung
Voi ngựa cùng lao lên hỡi binh sĩ
Gươm tuốt sáng lòa không thắng không về
Chớp giật sấm vang ngàn người như một
Chí kiêu hùng không hổ phận Nam nhi
Nay nhớ lại mùa xuân Kỷ Dậu
Lòng say xưa kể chuyện Anh Hùng
Sông núi của ta ngàn đời hùng vĩ
Là trai Nam ta hãnh diện vô cùng
C.D.M.
Thứ Tư, 2 tháng 7, 2014
HOA XƯA
Hoa xưa đẹp lộng trời xuân
Trời ban sắc đẹp muôn dân đón mừng
Hoa nay bán đắt quá chừng
Nhà hàng đón VIP ăn mùng liên hoan
Hoa xưa biểu tương thanh tân
Thú chơi tao nhã muôn phần nên thơ
Ngày nay thiên hạ trao hoa
Kèm lời chúc tụng để mà thăng quan
Hoa xưa dành cúng thần linh
Dân an quốc thái quê mình ấm no
Ngày nay hái lộc vặt bừa
Trơ cành trụi lá kể gì tiếc hoa
Anh Đào tươi đẹp mặn mà
Từ bên xứ bạn tặng quà ngày xuân
Bẻ trụi ! Còn liêm sỉ không ?
Ngày xưa đâu thế ? Phải không ? Hỡi người ?
C.D.M.
Thứ Ba, 1 tháng 7, 2014
QUÁN CÀ PHÊ " TÌNH CỜ "
Tình cờ ta ghé quán em
Tình cờ lỡ hẹn ngồi ên một mình
Tình cờ đường nhựa rộng thinh
Hố đen có kẻ bước lên tình cờ
Xe con tình cờ lướt qua
Tình cờ nước bẩn tưới òa người đi
Tình cờ cách mạng tới quê
Đói rét , vô học , u mê tình cờ
Nâng ly cà phê tình cờ
Tình cờ rớt vỡ lời thơ nghẹn ngào
Tình cờ ông trời ngó vào
Tình cờ ta cũng vẫy chào : OẢI CHƯA
C.D.M.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)